Tiếng Đàn Trên Sông 
(Tỳ Bà Hành
- Bạch Cư Dị)


Hải Đà sưu tập và biên soạn (Phần 4) 

Tranh: Quỳnh Hương 


Tưởng cũng ghi lại lại đây bài thơ nguyên tác Cẩm Sắt của Lư Thương Ẩn để t́m sự liên hệ đồng cảm về ư tưởng mà Nguyễn Du mà muốn vay mượn để diễn tả tiếng đàn của Thúy Kiều gảy cho Kim Trọng nghe sau mười lăm năm ly cách :
  

Cẩm Sắt
 

Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền,

Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.

Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp,

Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên.

Thưng hải nguyệt minh châu hữu lệ,

Lam điền nhật noăn ngọc sinh yên.

Thử t́nh khả đăi thành truy ức,

Chỉ thị đương th́ dĩ vơng nhiên.

Lư Thương Ẩn
 

Đàn Gấm
 

Đàn gấm v́ sao năm chục dây

Mỗi dây thầm nhớ tuổi hoa bay

Sớm mơ hóa bướm Trang sinh đó

Xuân mộng lời quyên Vọng đế nầy

Trăng biển long lanh hàng lệ biếc

Ngọc Lam nồng ấm khói vờn mây

T́nh xưa gợi nhớ trang hoài niệm

Duyên cũ chơi vơi luống đọa đày

Hải Đà phỏng dịch  

 

C̣n thêm một tiếng đàn khác với muôn vàn cung điệu được diễn tả một cách rất tài t́nh bởi một thi sĩ đời Đường mà thiên hạ thường gọi là Thi Quỷ Lư Hạ, là một thiên tài đă bị lăng quên. Lư Hạ là một hiện tượng kỳ dị trong nền thi ca Trung Quốc, thơ của ông được truyền tụng là “Thi trung hữu quỷ “ (trong thơ có quỷ ), nghe thật là quái đăng làm sao! Thơ của ông ảo năo, ai oán, bi hận, vương vấn cơi âm mờ mịt, gây ấn tượng kỳ lạ trong ḷng người đọc … Ông đă lận đận trên đường công danh sự nghiệp, bị người đương thời ti tiện dèm pha ganh ghét … như Lư Hạ đă từng uất hận thổ lộ tâm t́nh “ hai mươi tuổi mà chưa hề đắc ư , tấm ḷng sầu tựa cánh lan khô “ (Ngă đương nhị thập bất đắc ư , Nhất tâm sầu tạ như khô lan ) . Bài thơ cảm hứng từ lời ca tiếng nhạc của Lư Hạ được nhiều người biết đến là bài “ Lư Bằng Không Hầu Dẫn “ – bài ca về tiếng đàn “không hầu” của Lư Bằng , là loại đàn xưa gồm 25 dây dùng ngón tay búng mà phát ra âm thanh . Theo tác giả Huỳnh Ngọc Chiến tuyển dịch và b́nh chú :Chơi đàn là một nghệ thuật, nghe đàn lại là một nghệ thuật khác không kém . Thơ ca Trung Quốc và Việt Nam thường có nhiều bài thơ nói về tiếng đàn. Nghe nhạc đến mức như Lư Hạ đă là bậc thượng thừa . Nhà thơ phải nhờ vào những cái tượng h́nh để diễn tả thanh âm, phải thác vào những cái không phải nhạc để nói lên nhạc, nên bài thơ dễ trở thành sáo rỗng . Nhưng những thi sĩ chân tài khi đem cái tài hoa của ḿnh để trộn lẫn vào cái sáo rỗng th́ cái sáo rỗng cũng trở nên bay bướm thanh tao . Thử hỏi tiếng ngọc vỡ hay tiếng phượng hoàng hót th́ nói được ǵ về âm nhạc ? Giả sử có kẻ tài tử nào đó trong đời đem tiền muôn bạc vạn mua ngọc về đập vỡ để nghe được tiếng ngọc tan, v́ thói cuồng ngông một thuở , th́ cái đó cũng chỉ được trong muôn một . Nào phù dung khóc sương mai, nào hương lan hé nụ, nào những dư ba vang động đến chín tầng trời … cũng đều là sự biểu hiệu của tâm hồn trong một tiếng tơ “(HNC – Lư Hạ Quỷ Tài Quỷ Thi)

 

Lư Bằng Không Hầu Dẫn

 

Ngô ti Thục đồng trường cao thu

Không sơn ngưng vân đồi bất lưu

Nữ Oa đề trúc, Tố Nữ khấp

Lư Bằng Trung Quốc đàn không hầu

Côn Sơn ngọc toái phượng hoàng khiếu

Phù dung khấp lộ hương lan tiếu

Nhị thập môn tiền dung lănh quang

Nhị thập tam ti động Tử hoàng

Nữ Oa luyện thạch bổ thiên xứ

Thạch phá thiên kinh đậu thu vũ

Mộng nhập thần sơn giáo Thần ẩu

Lăo ngư khiêu ba sấu giao vũ

Ngô Chất bất miên ỷ quải thọ

Lộ cước tà phi thấp hàn thố

Lư Hạ  (789-816)

 

Tiếng Đàn Không Hầu của Lư Bằng

 

Tơ Ngô gỗ Thục cung đàn

Mây thu đứng lặng, núi ngàn quạnh hiu

Tiếng ai khóc trúc tiêu điều

Lư Bằng dạo khúc cô liêu ngỡ ngàng

Tiếng như phượng hót ca vang

Xót xa ngọc vỡ núi ngàn mênh mang

Phù dung nức nở sương tàn

Tiếng đưa hương ngát hoa lan mỉm cười..

Cổng đ́nh rực sáng reo vui

Hăm ba dây động tơ trời chơi vơi

Tiếng như luyện đá vá trời

Mưa thu ngưng đọng ră rời thanh âm

Tiếng đàn ru giấc mộng thần

Giao long nhảy múa rập rờn cá bay

Người xưa thức trắng đêm dài

Trăng khuya thấm ướt gót hài đẫm sương

Hải Đà phỏng dịch

(bài thơ có nhiều điển cố nên tác giả chỉ xin phỏng dịch)

Tiếng đàn đă biểu lộ những t́nh cảm biến thiên của con người, nhưng tiếng đàn cũng cảm hóa ḷng người, mang sự thanh thoát nhẹ nhàng để khai ngộ, như một bài thơ của Lư Bạch hàm chứa một triết lư sâu xa về cuộc đời khi diễn tả tiếng đàn của Thục Tăng Tuấn, một ẩn sĩ thiền tu ở núi Nga My .. Tiếng đàn ngân vang khi ráng chiều buông phủ, sương trắng mờ ẩn hiện ...nghe như tùng reo vang trong khe suối, như tiếng nước chảy róc rách rửa sạch mọi ưu phiền tục lụy trong cuộc sống đời thường, với tiếng chuông văng vẳng đâu đây để người thơ thấu suốt sự lư, liễu ngộ trần tục .. Tiếng đàn của Thục Tăng đă đem đem lại sự vi diệu của trí huệ, triển khai cuộc sống con người đến thế giới lâng lâng siêu thoát của thiền thi và đạo pháp.

Thính Thục Tăng Tuấn Đàn Cầm

Thục tăng băo lục ỷ
Tây hạ Nga My phong
Vị ngă nhất huy thủ
Như thính vạn hác tùng
Khách tâm tẩy lưu thủy
Dư hưởng nhập sương chung
Bất giác bích sơn mộ
Thu vân ám kỷ trùng

Lư Bạch

Nghe Sư Thục Gảy Đàn Cầm

Thục Tăng ôm chiếc đàn cầm
Từ phương Tây xuống đến gần Nga My
V́ ta gảy khúc trúc ty
Nghe như tùng bách thầm th́ dưới khe
Nước trôi rũ sạch ḷng mê
Sương rơi huyền ảo vọng về tiếng chuông
Núi xanh phủ bóng chiều buông
Mây thu lớp lớp chập chùng mênh mang

Hải Đà phỏng dịch

Bài thơ Đàn Cầm và U Cầm của Lưu Trường Khanh đă diễn tả tiếng đàn thanh trong, d́u dặt , êm ái , dịu dàng như hơi gió lành lạnh thoảng qua làm rung nhẹ những ngọn thông vi vút … giống như khúc “Phong nhập tùng” (Gió thổi cành thông) mà người xưa đă gửi gắm tâm t́nh qua tiếng đàn trầm bổng ngân rung .. Bài thơ của Lưu Trường Khanh đă muốn nói lên cái tâm sự tiếc thương nhung nhớ khúc đàn xưa êm ái, tức là đàn cầm thường hay xử dụng vào thời Hán ngụy, Lục triều … đến khi qua đời Đường th́ người ta lại thích gảy đàn T́ bà hơn .

Đàn Cầm

Lănh lănh thất huyền thượng
Tịnh thính tùng phong hàn
Cổ điệu tuy tự ái
Kim nhân đa bất đàn

Lưu Trường Khanh

Gảy Đàn Cầm

Bảy dây thánh thót đàn rung
Lắng nghe hơi lạnh gió tùng đong đưa
Tuy rằng ta thích điệu xưa
Ngày nay chẳng mấy ai ưa gảy đàn …

Hải Đà phỏng dịch


U Cầm

Nguyệt sắc măn hiên bạch
Cầm thanh nghi dạ lan
Lưu lưu thanh ti thượng
Tịnh thính tùng phong hàn
Cổ điệu tuy tự ái
Kim nhân đa bất đàn
Hướng quân đầu thử khúc
Sở quư tri âm nan

Lưu Trường Khanh

Đàn Buồn

Ngoài hiên trăng tỏ trắng ngần
Đêm nghe trầm bổng tiếng đàn nhẹ bay
Dây tơ d́u dặt ngất ngây
Lắng nghe gió lạnh lắt lay thông ngàn
Đàn xưa ta thích vô vàn
Ngày nay mấy kẻ thích đàn .. than ơi !
Đàn đây.. gảy khúc tặng người
Tri âm muốn gặp trên đời khó thay !

Hải Đà phỏng dịch

Thi sĩ Lạc Thủy Đỗ Quư Bái là người rất có ḷng mến mộ Đường Thi từ khi c̣n trẻ. Ông cũng đă chịu ảnh hưởng nhiều về bài thơ Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị. Sau Tết Mậu Thân, vào thời điểm thương phế binh đă hy sinh một phần thân thể của ḿnh, nhưng không được chính quyền quan tâm giúp đỡ, đă phải "kiếm đất cắm dùi" dành quyền sống, nhà thơ Lạc Thủy đă xúc động trước hoàn cảnh thương tâm bi đát của xă hội, và thêm vào đó Ông cũng cảm thấy đau ḷng trước sự mất mát, ra đi vĩnh viễn của người bạn hiền thân thiết, một
bạn đồng song có lương tâm của Ông là BS Phạm Đ́nh Bách đă bị pháo kích và tử thương trong cuộc chiến, nên thi sĩ Lạc Thủy đă xúc động sáng tác bài trường thi "Đoạn Trường Ngâm Khúc", cũng theo thể song thất lục bát. Bài thơ này cũng được tác giả đặt tên là "Bài Ca Trên Bến Sông" cùng mang một hoài cảm, cấu trúc, và thể điệu như bài Tỳ Bà Hành, mà âm thanh huyền diệu đem lại sự rung động xao xuyến trong bài thơ là tiếng sáo đồng thay v́ tiếng đàn tỳ bà. Bài thơ đă thể hiện được sự tương giao mật thiết giữa đời sống nội tâm, xă hội chung quanh, và nỗi niềm nhân thế. Qua sự diễn tả tiếng sáo vi vút trầm bổng, thê lương năo nuột, tê tái bi phẫn, len thấm vào tâm hồn người đọc, vang vọng khôn nguôi, tác giả chỉ ước vọng dùng : "Bút cùn ghi đoạn tràng một khúc . Mong thế nhân trong đục tỉnh say. Soi gương tự ngắm mặt mày. Sao cho dân Việt đỡ cay đắng ḷng … LT- ĐQB"

Nếu khách chẳng chê rằng rầu rĩ
Cũng xin chiều nhă ư vài hơi
Tay thần rung vuốt nhặt lơi
Không gian phút chốc ngập lời oán than
Nghe chua xót bào gan xé ruột
Nghe thảm sầu tê buốt óc tim
Nước cau mày lệ im ĺm
Trăng tà ảm đạm khuất ch́m trời tây
Gió gây gay cho đầy nuối tiếc
Mây bàng hoàng đặc sệt hờn căm
Trầm như ma khóc cơi âm
Cao như trời thẳm bặt tăm phi thuyền
Giốc, chủy rũ ré lên nức nở
Đồ rê mi rung vỡ sao khuya
Trắng sông sương muối ủ ê
Ngàn dừa hiu quạnh lê thê dâng sầu
Ai ngăn nổi rầu rầu nét mặt
Khi điệu buồn lan khắp sơn khê
Tiêu điều như đọan như chia
Chủ nhân gác sáo tái tê thở dài

Đoạn Trường Ngâm Khúc / Bài ca Trên Bến Sông
(Lạc Thủy- Đỗ Quư Bái)

Bài thơ "Đoạn Trường Ngâm Khúc" là một bản giao hưởng đầy màu sắc và âm điệu Đường Thi, đă biểu lộ được sự phong phú mẫn cảm của tâm hồn, phản chiếu những t́nh cảm tinh tế của con người, đầy trắc ẩn nhân t́nh, giọng điệu thơ trang nhă và thẩm mỹ, mang cốt cách thi nhân cổ điển. Tiếng sáo ngân vang réo rắt muôn cung điệu trong bài thơ , đă phản ảnh thực tại của đời sống, cũng chính là tiếng ḷng riêng tư thầm kín mà tác giả muốn bộc bạch một cách thuần hậu chân t́nh . Phải chăng Thơ để hóa giải nỗi ḷng khắc khoải, niềm đau thương tê tái và uẩn khúc ưu thời của thi nhân ?

Thật phức tạp khó ḷng mô tả
Giá được như Tư Mă Giang Châu
Lắng tai nghe trọn niềm sầu
Ắt là hợp ư tâm đầu cũng nên

(Lạc Thủy – Đỗ Quư Bái)

Chu Mạnh Trinh trong tập thơ Vịnh Kiều với ư tứ cảm động và lời lẽ nhẹ nhàng, đă bày tỏ nỗi niềm tâm can với tất cả chân t́nh dạt dào cảm xúc, đă bênh vực cho số kiếp hồng nhan bạc mệnh, phải chăng ông đă muốn mượn h́nh ảnh của người ca kỹ trên bến Tầm Dương dể ngụ ư nói lên cái thuyết tài mệnh tương đố của người phụ nữ có tài sắc bị ba ch́m bảy nổi trong biển khổ trầm luân : “ Than ôi! Một bước phong trần mấy phen ch́m nổi, trời t́nh mờ mịt, bể giận mênh mông . Sợi tơ mành theo gió đưa đi ; cánh hoa rụng chọn ǵ đất sạch . Ai dư nước mắt khóc người đời xưa, thế mà giống đa t́nh luống những sầu chung, hạt lệ Tầm Dương chan chứa …“ (Bài Tựa Truyện Kiều- CMT – Đoàn Qui dịch) ..

Cái buồn rười rượi trong những ḍng thơ cảm xúc nhân thế, ngậm ngùi cho cơi nhân sinh, mang nỗi thống thiết, buồn đau kim cổ, qua h́nh ảnh của người xưa, vọng lên từ đáy hồn sâu thẳm của người thơ. Cái thân phận bèo dạt hoa trôi của người ca kỹ bến nước Tầm Dương h́nh như mơ hồ ám ảnh trong nhiều bài thơ của Vũ Hoàng Chương :


Thuyền buộc sông mưa

Ngựa dừng trăng khuyết

T́nh nhân thế chua cay người lịch duyệt

Niềm giang hồ tan tác lệ Giang Châu

(Dâng T́nh - Vũ Hoàng Chương)
 

Cắm thuyền sông lạ một đêm thơ

Trăng thượng tuần cao sáng ngập bờ

Đâu đó Tầm Dương sầu lắng đợi

Nghe hồn ly phụ khóc trên tơ

Có lẽ ngàn xưa là đáy sông

Đêm đêm giọt lệ gái xa chồng

Đè theo đôi tiếng Tỳ hư ảo

Dâng tới thuyền ai ngủ bến không …

(Đà Giang – Vũ Hoàng Chương)
 

Đàn rưng rưng lệ phách dồn mưa

Tiếng hát tàn rơi hận thuở xưa  
Bụi nhuốm Thiên Thai nḥa hứng rượu

Đời sau say giúp mấy cho vừa

Cô đơn men đắng sầu trăng bến

Đất trích Tầm Dương quạnh tiễn đưa

Nhịp đổ càng mau nghe ríu ríu

Tê rời tay ngọc lúc buông thưa

(Dựng – Vũ Hoàng Chương)
  

 Bây giờ chúng ta hăy nghe Vũ Hoàng Chương diễn tả ư đàn , tức là cái hồn của tiếng đàn … Tiếng đàn ngân vang đă ca tụng cái niềm thi vị hoan lạc của thế gian .. “sóng đàn ngây nhịp chèo thơ “, chuỗi âm thanh êm ả, trong trẻo như “ḷng hoa nghiêng dáng cầm trăng”, những tiếng đàn làm dày ṿ trí nhớ, như một bản năng khao khát và mănh liệt,  ám ảnh đưa người thơ gợi nhớ một chiều xưa nào đó trên bến sông “ hững hờ nước trôi “ . Một tiếng đàn, một âm thanh, một h́nh ảnh rất t́nh cờ, cảm nhận và khởi phát từ một vô thức đột ngột nào đó, như một mạch ngầm tuôn chảy hồn nhiên, bỗng trở nên xao xuyến t́nh tứ lung linh, đă gây một sự chấn động hồn thơ, vọt trào cảm hứng, gây sự thôi thúc nội tâm người thơ, quằn quại trong một thế giới mông lung khó hiểu của thơ và nhạc quyện vào nhau :  Tiếng cầm chưa tắt dư ba  . Nao nao nguồn máu lời ca vọng về …”

  

Ư Đàn (Vũ Hoàng Chương)

  

Mơ xanh đắng vị thu già

Sắt vàng chen, ngón tay ngà gió mưa

Chiều nay gợi nhớ chiều xưa

Bao giờ quên phút bây giờ cho chăng

Ḷng hoa nghiêng dáng cầm trăng

Phím dây bừng thức cung Hằng áo xiêm

Lắng tai càng vẩn nỗi niềm

Thoắt dồn mau thoắt buông ch́m tiếng tơ

Sóng đàn ngây nhịp chèo thơ

Mà bên thuyền chỉ hững hờ nước trôi

Một cung Lưu thủy ngậm ngùi

Men thiêng hồ dễ say người được sao

Lỡ nhau mùa chớm bông đào

Gặp nhau thà giấc chiêm bao trước đèn

Tỉnh thôi gối lệ đầm hoen

Tiệc tan bèo nước sầu lên hôn hoàng

Chơ vơ một đảo ḷng hoang

Chiếu câm màu biển tường loang sắc trời

Quanh ḿnh phấn rụng hương rơi

Cánh phiêu lưu chợt ră rời bướm hoa

Tiếng cầm chưa tắt dư ba

Nao nao nguồn máu lời ca vọng về

Rối tung hai mái tóc thề

Mây trời cỏ đất lê thê bóng chiều

 

Hội nhập trong tiếng đàn của Vũ Hoàng Chương là những “màu sắc” hài ḥa trong thơ (Chiếu câm màu biển tường loang sắc trời ), phảng phất những “mùi hương” lăng đăng (Quanh ḿnh phấn rụng hương rơi), những âm điệu nồng nàn quyến rũ mê li (phím dây bừng thức cung Hằng áo xiêm) , làm ta liên tưởng đến những ư tưởng lạ lùng trong bài thơ Huyền Diệu của Xuân Diệu :
   
Huyền Diệu (Xuân Diệu)

  

Này lắng nghe em hát khúc nhạc thơm

Say người như rượu tối tân hôn

Như hương thấm tận qua xương tủy

Âm điệu thần tiên thấm tận hồn

 

Hăy tự buông cho khúc nhạc hường

Dần vào thế giới của du dương

Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy

Hiển hiện hoa và phảng phất hương …

 

Hăy nghe lẫn lộn ghé bên tai

Giọng suối, lời chim, tiếng khóc ngướ;

Hăy uống thơ tan trong khúc nhạc

Ngọt ngào than gọi thuở xa khơi …

 

Rồi khi khúc nhạc đă ngừng im,

Hăy vẫn ngừng hơi nghe trái tim

C̣n cứ run hoài như chiếc lá

Sau khi trận gió đă im ĺm

 Xuân Diệu (Huyền Diệu)  
  

Ở trong cái cái thế giới âm nhạc đó, người đọc sẽ cảm nhận được “hương thơm, màu sắc và thanh âm tương ứng với nhau” ( Les parfums, les couleurs et les sons se répondent ) như lời của thi-sĩ Charles Baudelaire , người thơ của chán chường và tuyệt vọng đă diễn tả :

Comme de longs échos qui de loin se confondent

Dans une ténébreuse et profonde unité,

Vaste comme la nuit et comme la clarté,

Les parfums, les couleurs et les sons se répondent.

Correspondances – Charles Baudelaire   

  
Như tiếng vọng từ xa xăm lẫn lộn 
Trong không gian sâu thẳm bóng đen dày

Mênh mông quá đêm dài và ánh sáng

Giữa thanh âm tương ứng sắc hương đầy
(Hải Đà)

 

Ư đàn buông lơi của Vũ Hoàng Chương như những sợi tóc tơ mềm mại đă tạo ra những h́nh ảnh hoài niệm diễm tuyệt và những  xúc động lạ lùng cám dỗ ngấm sâu vào nội tâm …để cùng “rợn ư say” như một tâm trạng của Bích Khê :  
  

Tóc xơa đàn tơ rơi lướt thướt

Hồn thu đă hiện khóc thu gầy

Tôi nh́n đôi mắt rưng rưng lệ

Cả mảnh hồn thơ rợn ư say

Tóc Xơa Đàn Tơ (Bích Khê)  
  

 Người kỹ nữ đó đă đánh mất tuổi thanh xuân , có c̣n chăng chỉ là tiếng đàn tỳ bà chan chứa lệ, đẫm ướt vạt áo xanh của chàng Tư Mă Giang Châu … Có lẽ trong chiều sâu ư tưởng của người thơ luống tuổi về chiều xúc động với những âm đàn tha thiết của người kỹ nữ trên bến nước Tầm Dương có những ư nghĩ thầm kín, cất dấu thăm thẳm trong ḷng,  chẳng bao giờ muốn bộc bộ cùng ai:
   

Nếu anh c̣n trẻ như năm cũ

Quyết đón em về sống với anh

Những khi chiều vàng phơ phất đến

Anh đàn em hát níu xuân xanh.

Có mây bàng bạc gây thương nhớ

Có ánh trăng vàng soi giấc mơ

Có anh ngồi lại so phím cũ

Mong chờ em hát khúc Xuân xưa.

 

Nhưng thuyền em buộc trên sông Hận

Anh chẳng quay về với trúc tơ

Ngày tháng tỳ bà vương ánh nguyệt

Mộng héo bên song vẫn đợi chờ.

 

Nếu có ngày nào em quay gót

Lui về thăm lại bến Thu xa

Th́ đôi mái tóc không c̣n xanh nữa

Mây bạc trăng vàng vẫn thướt tha...

T́nh Cầm  (nhạc Phạm Duy, thơ Hoàng Cầm)
       

Kết Luận:  Trong thế giới huyền ảo của nghệ thuật âm nhạc, tiếng đàn tuyệt diệu chính là tiếng hát của con tim mẫn cảm, tác động tâm hồn và khêu gợi h́nh ảnh, tạo những nhịp đập cảm xúc mănh liệt, những chuỗi liên tưởng gợi h́nh , đó là những âm thanh hữu t́nh nhờ năng lực huyền nhiệm của thi ca mà chấp cánh bay lượn trong khung trời cảm xúc vô biên . Tỳ Bà Hành là một nghệ thuật thơ siêu việt, đă gây măi những ấn tượng cực kỳ sâu sắc, lắng đọng vào chiều sâu của tâm tưởng và trí tuệ . Bài thơ là sự kết hợp tài t́nh nhuần nhuyễn giữa ư từ , ngôn ngữ và âm thanh, giống như một bản ḥa âm huyền diệu biến chuyển nhịp nhàng, mỗi điệp khúc là một h́nh tượng diễn cảm đặc biệt dẫn dắt người đọc đi hụt hẫng giữa mộng và mơ, giữa thực và ảo, không bến bờ, triền miên vô tận . Ư từ diệu vợi, phong vận tuyệt vời, ngôn ngữ gợi cảm và âm hưởng kỳ lạ của Bài Tỳ Bà Hành thắm đượm t́nh người, man mác ngậm ngùi cho cảnh đời dâu bể, đă kích động nguồn cảm ứng tự nhiên của tác giả. Người viết xin mạo muội gửi đến bạn dọc những cảm nghĩ riêng tư qua bài thơ Vô Đề 5:     
     

Vô Đề 5

Gió thổi hắt tơ t́nh tung vạn hướng

Mắt sầu thu huyễn mộng tận phương nào

Thuyền long đong ngậm ngùi đêm tĩnh lự

Hồn ly hương quanh quất giữa ngàn sao

 

Từ thuở đó có bao giờ nghe lại

Tỳ bà xưa khe khẽ khúc cô liêu

Sương khói tỏa sa mù trên sông lạnh

Trái tim người hiu hắt phủ xanh rêu

 

Mưa sướt mướt xói ṃn đêm ủ rũ

Lời hư không đồng vọng khúc bi trầm

Trăng cảm ứng từ trời cao bất tận

Cung bậc sầu tri ngộ với tao nhân

 

Khơi tro lạnh giữa ḍng đời lưu lạc

T́m men nồng trong rượu đắng nhân sinh

Khúc nhạc trỗi ân t́nh đêm quyến luyến

Mà sông trăng nước chảy vẫn vô t́nh

 

Đàn, sông lạnh cùng người không ước hẹn

Ngẫu nhiên sao che dấu một lời thề

Âm vang măi muôn đời t́nh vĩnh cửu

Có đi xa ngàn dặm vẫn quay về …

Hải Đà - Vương Ngọc Long

(Bài sưu khảo nếu có ǵ thiếu sót và bất cẩn, kính mong sự lượng thứ
và thông cảm của quí bậc túc nho trưởng thượng và quí bạn đọc yêu thơ. )

 

 

Cung Đàn và T́nh Thơ

 

Tay gầy từng nhánh xanh xao

Khẽ rung phiếm mỏng ngọt ngào điệu ru

Cung nào trầm bổng phiêu du

Đong đưa cánh nhạn tít mù xa khơi

Âm đàn luyến láy chơi vơi

Tiếng xao xuyến nhẹ ru đời chiêm bao

Cung nào dồn dập xôn xao

Đầu non suối đổ lệ trào biển dâu

Dây dưa một khúc tơ sầu

Dạ tê tái dạ, ḷng đau đớn ḷng

Triều dâng sóng bạc phiêu bồng

Trăm năm gió hút cuốn ḍng sông xa

Cung nào man dại kiêu sa

Đôi bờ viễn mộng nở hoa ân t́nh

Gió đưa thuyền nhẹ lênh đênh

Chơi vơi cung thủy dập dềnh nổi trôi

Cung nào bạt gió lẻ loi

Sụt sùi mắt lệ khóc đời cô liêu

Nguyệt tà réo rắt thanh tiêu

Lắt lay cành trúc quạnh hiu canh trường

Ẩn t́nh vọng khúc quê hương

Mênh mang sóng nước vô thường dạt trôi

Cung nào nức nở hồn soi

Sông hồ lưu lạc lạnh đời ly hương

Ai về phơi bóng tà dương

Ngàn thu tịch mịch sầu vương mấy bờ

Lời ru từ thuở nguyên sơ

Vườn trăng rơi rụng tiếng thơ bàng hoàng

Cung nào thỏ thẻ oanh vàng

Giữa đêm đàn nguyệt gió ngàn đẫm hương

Cung nào ánh mắt em thương

Tiếng thơ d́u dặt du dương phím đàn …

 

            Vương Ngọc Long