Nguyễn Du
(1765-1820)

Thu Chí
Thu Dạ I
Thu Dạ II
Thu Nhật Kư Hứng

Thu Chí
Tương Âm Dạ
n Thu Ngẫu Hứng



THU CHÍ

Tứ thời hảo cảnh vô đa nhật
Phao trịch như thoa hoán bất h
i
Thiên lư xích thân vi khách cữu
Nhất đ́nh hoàng diệp tống thu lai
Liêm thuỳ tiểu các tây phong động
Tuyết âm cùng thôn hiểu giác ai
Trù trướng lưu quang thôi bạch phát
Nhất sinh u tứ vị tằng khai
Nguyễn Du
(
Thanh Hiên Thi Tập)

 
 
     

THU ĐẾN

Cảnh đẹp quanh năm được mấy ngày
Thời gian thoi đẩy vút xa bay
Dặm ngàn đất khách thân trơ trọi
Một chốn thềm thu lá rụng đầy
Gác nhỏ rèm thưa lay lắt gió
Thôn sương kèn sớm năo ḷng thay
Ngậm ngùi tóc trắng đời mau chóng
Sầu kiếp nhân sinh vẫn thế này

Hải Đà phỏng dịch


 

THU DẠ I

Phồn tinh lịch lịch lộ như ngân,
Đông bích hàn trùng bi cánh tân.
Vạn lư thu thanh thôi lạc diệp,
Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân
Lăo lai bạch phát khả liên nhữ
Trú cữu thanh sơn vị yếm nhân
Tối thị thiên nhai quyện du khách
Cùng niên ngoạ bệnh Tuế giang tân
Nguyễn Du
(T
hanh Hiên Thi Tập)


 
   
     

ĐÊM THU I

Dày dặc sao đầy bạc trắng sương
Thềm đông dế vọng khúc bi thương
Tiếng thu giục lá rơi muôn dặm
Trời lạnh cho mây vắng bóng đường
Đầu bạc thân già thương bạn thiết
Núi xanh chốn cũ khách c̣n vương
Chân trời viễn khách dừng chân nghỉ
Bến Tuế quanh năm ốm liệt giường
Hải Đà phỏng dịch
 


 

THU DẠ II

Bạch lộ vi sương thu khí thâm
Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm
Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ
Ác phát kinh hoàn mạt nhật tâm
Thiên lư giang sơn tần trướng vọng
Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm
Tảo hản dĩ giác vô y khổ
Hà xứ không khuê thôi mộ châm
Nguyễn Du
(T
hanh Hiên Thi Tập)

 
   
     

ĐÊM THU II

Sương nḥa móc trắng trĩu hơi thu
Cây cỏ cồn sông phủ mịt mù
Rọi sáng đèn khêu đêm ló dạng
Thương tâm tóc búi kiếp phù du
Núi sông muôn dặm sầu đeo đẳng
Cảnh sắc mùa thay dạ rối bù
Không áo co ro thân rét lạnh
Chầy chiều ai dập tiếng buồn ru ?
Hải Đà phỏng dịch
 


 

THU NHẬT KƯ HỨNG

Tây phong tài đáo bất quy nhân
Đốn giác hàn uy dĩ thập phần
Cố quốc hà sơn khan lạc nhật
Tha hương thân thế thác phù vân
Hốt kinh lăo cảnh kim triêu thị
Hà xứ thu thanh tạc dạ văn
Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập
Măn đ́nh hoàng diệp lạc phân phân
Nguyễn Du
(Nam Trung Tạp Ngâm)


 
 
     

NGÀY THU CẢM HỨNG

Viễn khách đường xa đón gió tây
Kinh hồn khí lạnh khiếp người thay
Non sông cố quốc trông chiều xế
Thân thế ly hương gửi bóng mây
Sáng sớm giật ḿnh kinh cảnh lăo
Đêm qua nghe vọng tiếng thu đầy
Cười ḿnh tóc bạc mà không tính
Lớp lớp vàng sân lá rụng bay
Hải Đà phỏng dịch
 


 

THU CHÍ

Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu
Văng sự bi thanh trủng
Tân thu đáo bạch đầu
Hữu h́nh đồ dịch dịch
Vô bệnh cố câu câu
Hồi thủ Lam Giang phố
Nhàn tâm tạ bạch âu

Nguyễn Du (1765-1820)
(Nam Trung Tạp Ngâm)

 

THU ĐẾN

Sông Hương một giải nguyệt cầm
Xưa nay khôn xiết trầm thâm nỗi sầu
Mồ xanh chuyện cũ thương đau
Thu vừa thấp thoáng mái đầu hoa râm
Mang h́nh hài khổ tấm thân
Người không bệnh tật lưng trần khom khom
Ngoảnh đầu trông bến sông Lam
Nh́n chim âu trắng ḷng nhàn chẳng yên .
Hải Đà phỏng dịch



TƯƠNG ÂM DẠ

Măn mục giai thu sắc
Măn giang giai nguyệt minh
Tịch liêu kim dạ vọng
Thiên trích cổ nhân t́nh
Thu thủy ṭng Tây lai
Mang nhiên thông Động Đ́nh
Tĩnh dạ tức ngâm khiếu
Vô sử giao long kinh

Nguyễn Du 
(Bắc Hành Tạp Lục)

 

ĐÊM Ở TƯƠNG ÂM

Sắc thu đầy mắt lung linh
Đầy sông bóng nguyệt hữu t́nh sáng soi
Đêm nh́n cảnh vắng chơi vơi
Nhớ thương người cũ chôn đời chốn đây
Nước thu chảy tự phương tây
Động Đ́nh hồ biếc về đây tuôn tràn
Đêm đừng ngâm vịnh thở than
E rằng rồng rắn ngỡ ngàng thất kinh
Hải Đà phỏng dịch



N THU NGẪU HỨNG

Giang Thành nhất ngọa duyệt tam chu
Bắc vọng gia hương thiên tận đầu
Lệ Thủy Cẩm Sơn giai thị khách
Bạch vân hồng thụ bất thăng thu
Thử nhân dĩ tác phàn lung vật
Hà xứ trùng tầm hăn mạn du
Mạc hướng thiên nhai thán luân lạc
Hà nam kim thị đế vương châu
Nguyễn Du 
(Nam Trung Tạp Ngâm)

 

ĐẦU THU NGẪU HỨNG

Giang Thành trú ẩn thoắt ba năm
Quê Bắc vời trông bóng biệt tăm
Lệ Thủy Cẩm Sơn đều đất khách
Cành hồng mây bạc sắc thu mang
Thân trong lồng chậu đời như thế
Chốn được vui chơi há dễ màng
Chớ ngóng trời cao than lạc kiếp
Đất vua nay đă phía sông Nam
Hải Đà phỏng dịch


Back to top