Hải Đà sưu khảo và
tuyển dịch
Thơ Đường là một
thành tựu lớn nhất, là đỉnh cao sáng chói của mấy ngh́n năm lịch sử Văn học
Trung Quốc. Mỗi một bài thơ Đường là một bức tranh sống động với các màu sắc
hài ḥa, có âm vang kỳ diệu và sức truyền cảm tuyệt vời, gợi mở, quyến rũ và đi
thẳng vào ḷng người đọc, để lại những suy tư trầm lắng và rung động không nguôi
… Đường Thi là sự kết tụ mỹ thuật, tinh hoa văn học nghệ thuật….Mỗi một bài thơ
Đường nổi tiếng xứng đáng là viên ngọc quí vô giá lung linh sáng chói, chẳng bao
giờ phai nhạt qua cơn bụi lốc mịt mù và gió băo của thời gian và không gian vô
tận….Bộ Toàn Đường Thi ấn hành vào năm 1707 chia làm 30 tập, gồm 900 quyển, với
hơn 49.000 của ngót hơn 2200 thi sĩ . Thơ Đường có thể nói đă trải qua gần 300
năm (618-907). Dựa vào sự biến chuyển của các triều đại nhà Đường, có thể chia
ra làm 3 thời kỳ tóm tắt như sau với những sắc thái riêng biệt, đặc trưng của
thi ca, và phong cách, trường phái của các nhà thơ :
Thời Sơ Đường
(618-713): mang phong cách của thời Lục Triều … thi vị cung đ́nh, lời lẽ hoa mỹ
ca ngợi vua chúa (thời Vơ Tắc Thiên cầm quyền, mua chuộc kẻ sĩ, văn nhân tài tử
để làm thơ tán tụng nhà vua ..) hoặc thi ca t́nh cảm ủy mị, phần nhiều chú trọng
về h́nh thức hơn là nội dung .. thơ theo đúng những qui luật về thanh điệu và
biền ngẫu. Tuy nhiên trong giai đoạn nầy có sự xuất hiện “Sơ đường tứ kiệt” ,
tức là bốn nhà thơ trẻ Vương, Dương, Lư, Lạc, v́ ảnh hưởng của chinh chiến, ly
loạn, nên thơ văn của họ gần thực tế hơn, phản ảnh được đời sống đau thương,
thực trạng xă hội đương thời, hoặc những h́nh ảnh oai hùng ở chốn biên cương,
hay bày tỏ thái độ uẩn ức đối với chế độ phong kiến đương thời. Thời Sơ Đường
c̣n có những nhà thơ nổi tiếng như Trần Tử Ngang đề cao khuynh hướng “phục cổ”,
Trương Cửu Linh với những bài thơ t́nh cảm nhẹ nhàng, hoặc Hạ Tri Chương, Trương
Nhược Hư với những bài thơ diễn tả t́nh cảm tha thiết hoặc tả cảnh thiên nhiên
với bút pháp tài hoa và điêu luyện. Họ đă kết hợp được trường phái hiện thực với
lăng mạn .
Thời Thịnh Đường
(713-846) : với sự lên ngôi của Lư Long Cơ (tức Đường Minh Hoàng) đă đề ra sự
“phục bích” (dựng lại bức tường cũ), nhắc lại sự việc lật đổ Vơ Tắc Thiên (705)
và Lư Long Cơ diệt Vi Hậu (713) để khôi phục nhà Đường. Đường Minh Hoàng là nhà
vua có nhiều tài năng, là một nghệ sĩ (tự nhuận sắc khúc Nghê Thường), say mê ca
múa thi văn, quí trọng văn nhân thi sĩ, đă lập ra Văn Học quán, nơi chốn để đàm
đạo thảo luận thơ văn ..Văn họcTrung Quốc vào thời kỳ nầy đă có cơ hội phát
triễn rực rỡ muôn màu, muôn sắc. .. Đây là thời kỳ đă đưa thơ Đường lên đỉnh cao
chói lọi. Đại diện cho thời Thịnh Đạt nầy có thể nói có bà nhà thơ rất nổi
tiếng, đó là Lư Bạch, Vương Duy và Đỗ Phủ. Lư Bạch với phong cách hào phóng đại
diện cho ḍng thơ lăng mạn bay bổng tự nhiên, đôi khi siêu thoát ra ngoài thực
tế . Thơ Vương Duy (c̣n là một họa sĩ có tài) man mác hương vị thiền, thanh đạm
hồn nhiên, chịu ảnh hưởng của Phật Giáo Thiền Tông.. Đỗ Phủ đại diện cho ḍng
thơ hiện thực trữ t́nh, mang những tư tưởng Khổng Mạnh của một kẻ sĩ đứng đắn
nhận thức được trách nhiệm đối với vua, nước và dân. Hơn nữa bản thân của Đỗ Phủ
cũng sống trong cảnh cơ hàn nghèo khó. Thời kỳ thi ca của Đỗ Phủ cũng là giai
đoạn cảnh thái b́nh thịnh trị trôi qua, khi Đường Minh Hoàng say mê nhan sắc
Trương Quư Phi, bỏ bê công việc triều chính và chiến tranh nhiễu nhương xẫy ra,
và chính Đỗ Phủ đă dùng ngọn bút tài ba của ḿnh để miêu tả những hoàn cảnh xà
hội tang thương trong giai đoạn nầy …Trong khi Vương Duy có những ḍng thơ chịu
ảnh hưởng Phật Giáo, thơ Lư Bạch man mác màu sắc Đạo Tiên, th́ thơ Đỗ Phủ tiêu
biểu tinh thần Nho Giáo, mang tính chất hiện thực của thời đại ..Cho nên người
ta thường gọi Vương Duy là Thi Phật, Lư Bạch là Thi Tiên và Đỗ Phủ là Thi Thánh
.. Thời kỳ Thịnh Đường c̣n có Mạnh Hạo Nhiên với những ḍng thơ thanh thoát và
chân thật, chịu ảnh hưởng triết lư Lăo Trang . Thơ Vương Xương Linh với những
bài xuất sắc diễn tả về cảnh cung đ́nh biên tái. Những nhà thơ khác nổi tiếng
trong thời kỳ nầy như Cao Thích, Sầm Tham, Vương Hàn, Vương Chi Hoán và Thôi
Hiệu (Hoàng Hạc Lâu) .Vương Kiến và Trương Tịch nổi tiếng về các loại thơ nhạc
phủ … Bạch Cư Dị đại diên cho ḍng hiện thực phê phán v́ ông đă trải qua một
giai đoạn lịch sử đen tối với chế độ quan liêu phong kiến đồi trụy và Bạch Cư Dị
đă dùng thi ca với những lời lẽ giản dị thành thực để mạnh dạn đấu tranh và tố
cáo những hành vi áp bức, và sự bất công trong xă hội, tố cáo sự bóc lột của
bonï quan lại quư tộc. Thơ của ông phản ảnh được nỗi ḷng và nỗi trầm luân thống
khổ của dân chúng trước thế sự thời cuộc ba ch́m bảy nổi .. Cùng thời với ông có
những nhà thơ khác như Hàn Dũ, Mạnh Giao, Giả Đảo, Trương Kế (Phong Kiều Dạ Bạc)
v.v.. Mỗi nhà thơ có một phong cách tài hoa điêu luyện khác nhau, mỗi người một
vẻ không sao kể xiết trong thời kỳ thịnh đạt nầy.
Thời Văn Đường
(846-907) : Thời kỳ nầy nhà Đường đă xuống dốc, xă hội suy thoái, hỗn loạn,
nhiều cuộc nổi dậy khắp nơi v́ quan lại tham nhũng, sưu cao thuế nặng . Nền văn
học Trung Quốc cũng bị chuyển biến theo và thơ văn mang tính cách tiêu cực, đề
cao t́nh yêu trai gái lăng mạn thoát ṿng lễ giáo, hoặc những bài thơ vịnh sử
phê phán gay gắt giai cấp quan liêu thống trị, sự tệ hại của vua quan, nỗi đau
khổ của dân nghèo cô thế . Giai doạn nầy có những nhà thơ nổi tiếng như Đỗ Mục,
Ôn Đ́nh Quân, Lư Thường Ẩn , Vương Vũ Xứng…
Phân loại các nhà
thơ Đường theo trường phái khác nhau có thể nói là khó khăn và phiến diện v́
những nhà thơ có thể vừa miêu tả sự hiện thực trong xă hội mà cũng có những bài
thơ phóng khoáng trữ t́nh, nghĩa là thể hiện nhiều khuynh hướng khác nhau … Đề
tài trong thơ Đường có những nội dung rất đa dạng và phong phú .. có rất nhiều
h́nh thức diễn đạt phóng khoáng từ những đề tài về an nhàn ẩn dật, vui thú điền
viên, tả cảnh thiên nhiên, đến những bài thơ nói về cung đ́nh, biên tái, chiến
chinh, những đề tài liên quan đến xă hội, cảnh nghèo đói áp bức, nỗi bất công
của phụ nữ, những bài thơ tâm t́nh, t́nh bè bạn thiên nhiên, đến t́nh yêu nam nữ,
rồi những đề tài vịnh sử, hoặc những bài thơ mang hương vị Thiền, đạo giáo v.v..
không sao kể xiết ..
Trong phạm vi bài
sưu khảo và dịch thuật nầy, tác giả chỉ xin giới hạn vào một số bài thơ tiêu
biểu với chủ đề T́nh Xuân Trong Đường Thi, mà chỉ xin trích dẫn và tuyển dịch
một số trong những bài thơ Đường nổi tiếng. Các học giả tiền bối cũng như các
thi sĩ hiện đại đă dịch rất nhiều những bài thơ Đường. Việc nghiên cứu, sưu khảo
và dịch thuật thơ Đường đ̣i hỏi công phu của tác giả dịch thơ, phải t́m hiểu
xuất xứ, nội dung, từ ngữ, điển tích, và nắm vững niêm luật bằng trắc, phép đối
ngẫu v.v.. của các thể loại thơ Đường.. và mỗi dịch giả thể hiện một phong cách
riêng biệt khi chuyển hóa qua một bài thơ Việt ..Mỗi tác giả có một cách nh́n
khác nhau cũng như sự cảm nhận t́nh ư, và cái hay cái đẹp của một bài thơ Đường
dưới các lăng kính đa dạng, nên mỗi tác giả có cách dịch thơ khác nhau, mỗi
người một vẻ … nhưng phần đông các bản dịch đều diễn tả được đúng h́nh thức và
nội dung của bài thơ gốc, thể hiện đúng ba nguyên tắc phiên dịch “ tín, đạt, nhă
“ …
T́nh Xuân Trong Đường Thi:
Theo định luật
tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ … xuân không tự hẹn mà đến, xuân đến ở trên đồi
cao bằng những bông nắng vàng tơ nở rộ, xuân đến với đồng xanh với những khúc
sáo nghê thường véo von, xuân đến trên ḍng sông với sóng nước bập bềnh loáng
bạc mênh mang … Xuân đến như hơi thở ngọt ngào, như nhịp tim đập tự nhiên của
đất trời …Bức tranh Xuân trong Đường Thi muôn màu, muôn vẻ đă thắp lên niềm tin
yêu, hy vọng và lạc quan cho con người và cuộc sống đời thường vốn dầy dăy oan
khiên nghiệp chướng, mịt mùng cát bụi vô thường như Thiền Sư Măn Giác đă dặn ḍ
tăng chúng : “Xuân qua trăm hoa rụng – Xuân tới trăm hoa tươi – Trước mắt việc
đi măi – Trên đầu già đến nơi - Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết – Đêm qua sân
trước một cành mai –“ (Cáo Tật Thị Chúng)
Xuân vẫn đến đấy
chứ … đến đó như giọt nắng vàng hoe treo lơ lửng trên cành , rồi lại ra đi như
cơn gió dịu mát vô t́nh thoảng qua. Thi sĩ Bạch Cư Dị đă cho chúng ta thấy một
h́nh ảnh nhân sinh của khổ lụy vô thường… mùa xuân trong cuộc đời cũng chỉ là
một thoáng mộng mong manh ngắn ngủi … mộng đẹp đó nhưng rồi cũng dễ tan đi như
mây bay gió thổi theo những buồn vui của cuộc đời…
Như hoa mà chẳng phải
hoa
Giống mù mà chẳng phải là mù sương
Nửa đêm chợt đến lạ thường
Sớm mai thức giấc lên đường lại đi
Đến như thoáng mộng xuân th́
Rồi như mây sớm lại đi phương nào ?
(Như Hoa Mà Chẳng Phải Hoa
-Bạch Cư Dị)
Thi sĩ Mạnh Hạo
Nhiên đă mở cơi ḷng ra phơi bày một cảnh sắc mùa xuân vào một buổi sáng thật
sống động khi vừa thức giấc bằng mắt thấy tai nghe với những h́nh ảnh xuân ấm áp
nồng nàn tràn đầy hương sắc dạt dào của hoa nở và thanh âm êm dịu của tiếng chim
ca. Nhà thơ đă đi từ cơi mộng, bước ra khỏi “giấc xuân” để cảm nhận một mùa xuân
trong thực tại hiện hữu của hương hoa thơm ngát và ngọt lành tiếng chim .. Và
sau khi cảm nhận được cái đẹp xuân của thiên nhiên vũ trụ, hoà nhập với cảnh
sáng mùa xuân, người thơ đă nhắc cho chúng ta biết rằng đâu phải xuân chỉ mới
đến sáng nay … mà xuân đă đến tự đêm qua với mưa rơi và gió thổi để mà thương
tiếc thầm cho những cánh hoa đă tàn rơi đêm qua … giữa khung cảnh thiên nhiên
chan chứa hương vị thiền trong sáng :
Giấc xuân quên cả b́nh
minh
Chim non ríu rít gọi t́nh muôn nơi
Đêm qua mưa gió bời bời
Biết bao hoa đă rụng rơi tứ bề
(Sáng Mùa Xuân – Mạnh Hạo
Nhiên)
Nhà thơ đă đánh
thức chúng ta ra khỏi cái thực tại với ngoại vật tốt tươi diễm lệ, để đi về với
sự hồi tưởng tiếc thương ngậm ngùi, với giấc mộng xuân đă qua mau bất chợt …như
một tuồng vân cẩu, một giấc mơ ngắn ngủi, tỉnh dậy nồi kê vẫn chưa chín … Thương
xuân để mà tiếc xuân như Lư Thương Ẩn đă bộc lộ t́nh cảm một cách thiết tha da
diết khi gió đông (tức là gió xuân) đă báo hiệu mùa xuân trở về, với sự oán
trách giận hờn :
Khó dễ gần nhau, khó
cách xa
Gió xuân bất lực rũ tàn hoa
(Vô Đề – Lư Thương Ẩn)
Hoặc như Đỗ Phủ đă
diển tả cái buồn thấm thía sâu sắc vô cùng khi thấy hoa tàn rụng bay trước cơn
gió ơ hờ của mùa xuân .. “phong phiêu vạn điểm chính sầu nhân” ..(gió tung muôn
cánh th́ nỗi sầu muôn phần) :
Một cánh hoa tàn Xuân
kém tươi
Ḷng buồn vời vợi, gió chơi vơi
Hoa xuân thấp thoáng, t́nh vương mắt
Hồn ngỡ bâng khuâng, rượu thấm người
(Khúc Giang- Đỗ Phủ)
Mùa xuân vừa ló
dạng đó, nhưng rồi cũng khuất bóng lúc nào chẳng hay. Vui hưởng và thương xuân
đó, nhưng rồi mỗi cánh hoa rụng lại báo hiệu một mùa xuân sẽ trở gót quay đi …
bồi hồi thương tiếc cho một mùa xuân sắp tàn :
Thềm sân mờ tỏ nở đầy
hoa
Mành lụa bên song yến hót ca
Phấn nhạt buông rèm ngồi ứa lệ
Thương xuân, xuân chẳng biết đâu mà !
(Thương Xuân Khúc – Bạch
Cư Dị)
Thư thái xuân về lắm sự
mong
Gió đông hây hẩy ấm xuân nồng
Tháng năm hờ hững nh́n hoa nở
Bệnh sẵn sầu dâng cảm xót ḷng
(Thương Xuân – Dương Vạn
Lư)
Đúng vậy …mùa xuân
đă tàn phai để lại nỗi buồn khắc khoải khôn nguôi cho người thưởng ngoạn, chẳng
khác ǵ “trong xuân sinh là thu sát điêu tàn, sau hạ trưởng là đông sầu xơ xác
..” nói lên cái định luật vô thường biến chuyển khôn lường của vũ trụ …
Chúa xuân đi mất trời
thôi đẹp
Phố cũ hương tàn lạnh bóng thu
(Mộ Xuân Hoài Cảm – Đái
Thúc Luân)
Mỗi độ xuân về đă
gợi cho những kẻ tha phương ly xứ nỗi niềm nhớ cố quận quê hương, nơi chôn rau
cắt rún một cách da diết năo nùng … nhất là cặp t́nh nhân phải cách xa nhau vạn
dặm . Vương Duy trong bài Tạp Thi nói chuyện về một đôi trai gái, nhà nàng ở ven
sông Hoàng Hà, c̣n chàng bận công vụ phải về Giang Nam. Nhân có người về Giang
Nam, nàng nhắn tin thăm chàng, và chàng cũng dọ hỏi người tin và xót xa đau ḷng
khi vẫn biết rằng bên song cửa nhà nàng, mai vàng đă nở hoa, cỏ cây xanh ngát,
chim non ríu rít trên cành, nhưng “ḷng buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, nàng vẫn
sầu muộn bên song cửa đợi tin chàng từ phương trời thăm thẳm … Những t́nh cảm
nhớ quê, nhớ người như những cơn sóng bập bềnh đă dồn dập xao xuyến không ngừng
…
Anh từ quê cũ mới ra
Hỏi thăm anh biết chuyện nhà ra sao
Nh́n qua song cửa hôm nào
Hỏi anh có thấy mai đào nở hoa ?
(Tạp Thi – Vương Duy)
Nói đến t́nh yêu
quê hương thiết tha mỗi độ xuân về phải nhắc đến nhà thơ Đỗ Phủ, một ngôi sao
sáng chói trên Thi đàn Trung Quốc vào thời Thịnh Đường . Ông là nhà nho tiến bộ,
hấp thu được những tư tưởng Khổng Mạnh thâm thúy sâu sắc, có một nhận thức rất
đứng đắn về nhiệm vụ, bổn phận, và vai tṛ của kẻ sĩ thanh liêm, nghiêm túc đối
với vua, với nước và với dân .. Thơ ông đượm đà t́nh yêu nước thương dân nồng
nàn thắm thiết, t́nh nhân đạo vị tha bao dung… Thơ ông đă phản ảnh trung thực
đời sống trung thực của những người dân bị áp bức bóc lột dưới chế độ phong kiến
tàn bạo của giai cấp quan liêu thống trị … Thơ Đỗ Phủ là tiếng nói trung thực
đậm đà của chính ḷng ông, gây lại một ấn tượng mănh liệt làm xúc động người đọc
.. Nỗi nhớ quê nhà của ông thấm thiết vô cùng khi mỗi độ xuân về khi thấy những
cây mai vàng đă bắt đầu hé nụ :
Tháng chạp mai hé nụ
Sang năm nở đầy hoa
Biết rằng ư xuân đẹp
Sao khách vẫn sầu a
Cây chung màu tuyết
trắng
Gió vờn sóng sông xa
Vườn cũ t́m đâu thấy
Núi Vu cây rườm rà
(Giang Mai- Đỗ Phủ)
Cố quận quê hương
ruột thịt th́ mịt mùng xa cách, nỗi nhớ nhung nơi chôn rau cắt rún khi phải sống
cuộc đời lữ thứ tha phương .. một nỗi buồn mênh mông sâu lắng và dằng dặc vô
cùng để nhà thơ phải khắc khoải tự hỏi “ hôm nao mới được về nhà thăm quê ?” …
Bài thơ u hoài vương vấn một nỗi buồn riêng mang khắc khoải và kín đáo:
Sông xanh càng trắng
chim trời
Núi cao biếc thắm rạng
ngời đỏ hoa
Thấy rằng năm hết xuân
qua
Hôm nao mới được về nhà
thăm quê ?
(Tuyệt Cú 12 – Đỗ Phủ)
Thơ Đỗ Phủ đă biểu
lộ tính cách hiện thực v́ ông là nhân chứng của thời đại đă tai nghe mắt thấy
được những thảm họa chiến tranh, những nỗi bi thương trầm thống của xă hội phong
kiến bất công suy đồi, sự xa hoa trụy lạc của giai cấp thống trị quan liêu, và
chính bản thân ông, đời sống ông cũng đă trải qua những thăng trầm tang thương
qua cuộc sống cơ hàn, vất vả, và khốn khổ.. Cuộc đời ông hầu như bôn ba tứ xứ
nơi đất khách quê người, nên ông đă chứng kiến thường xuyên những cảnh chiến
tranh chết chóc, những nhiễu nhương của xă hội và cuộc sống bần cùng, không
những của chính bản thân ông mà c̣n của những kẻ tha nhân không quen biết …Ông
đă không được may mắn, thành công trên con đường thăng quan tiến chức như bao kẻ
quyền sang biết luồn cúi và nịnh bợ triều đ́nh … Tính t́nh ông quá ngay thẳng .
Ngay khi ông mất nơi đất khách quê người, gia đ́nh ông cũng không đủ tiền đem
được linh cửu của ông về quê v́ quá nghèo ..Thơ của ông tràn đầy t́nh nhân đạo
sâu sắc, yêu nước thương dân… Chính thơ đă phản ảnh được cái chức năng “Thi ngôn
chí “, tức thơ đă nói lên cái chí khí kẽ sĩ trong một giai đoạn lịch sử nào đó
..
Mất nước, c̣n sông núi
Cây cỏ mọc thành xuân
Thương t́nh hoa tủi lệ
Biệt ly chim bần thần
Ba tháng tràn khói lửa
Thư nhà giá vô vàn
Tóc bạc ngày thêm ngắn
Cài trâm ắt phân vân
(Xuân Vọng – Đỗ Phủ)
Những người lữ thứ
nơi đất khách quê người là những người nhớ quê hơn ai hết, ḷng nôn nao chỉ
ngong ngóng ngày trở về quê cha đất mẹ, mỗi độ xuân về …
Vô t́nh nước cuốn hoa
tan
Tiễn đi đông lạnh, gió
ngàn bay qua
Đêm mơ hóa bướm, nhớ
nhà
Đỗ quyên rền rĩ, xót xa
trên cành
Vắng thư, ngày tháng
trôi nhanh
Mái đầu sương điểm,
xuân quanh quẩn gần
Muốn về chẳng mấy khó
khăn
Ngũ hồ sương khói, dễ
cầm chân ta ?
(Xuân Tịch Lữ Hoài – Thôi
Đồ)
Khi làm cánh chim
viễn xứ, phải rời tổ ấm của quê cha đất tổ, th́ cái nỗi buồn thấm thía và da
diết, nẫu nuột thấu tận tâm can phải là cái buồn xa quê hương, khi năm tàn tháng
tận, vào những ngày cuối năm, mà phải lê thân quán trọ nơi đất khách xứ người,
mà quê hương th́ xa vời vợi …
Năm mới quê càng nhớ
Góc trời mắt lệ sa
Già lê thân quán trọ
Xuân đến người phương
xa
Sớm chiều cùng vượn núi
Sông gió liễu thướt tha
Khác chi câu truyện cổ
C̣n lại bao năm qua ?
(Tân Niên Tác – Lưu Trường
Thanh)
Có những nhà thơ
c̣n chút may mắn hơn Đỗ Phủ là đến cuối cuộc đời già, đă đạt được cái hoài băo
về thăm quê hương … Hạ Tri Chương đi làm quan xa nhà măi đến năm 86 tuổi v́ già
ốm xin từ quan về quê. Sau hơn năm mươi năm xa cách, ông mới về quê vào dịp xuân
về, và ông đă cảm khái viết nên bài Hồi Hương Ngẫu Thư (2 bài). Khi ra đi chỉ
mang theo kỷ niệm dạt dào và t́nh cảm gắn bó với quê nhà, mà sau bao nhiêu năm
mải mê đeo đuổi sự nghiệp công danh, vẫn cảm thấy t́nh quê hương là t́nh cảm
thiêng liêng cao quí chẳng hề đổi thay trong ḷng dạ người thơ. Nhưng lúc về đến
nhà th́ bao nhiêu cảnh vật, sự kiện đă đổi thay, đám trẻ quê nhao nhao v́ nghĩ
rằng nhà thơ cũng chỉ là kẻ lạ lẫm từ phương trời nào xa lạ tạm ghé qua đây. Cha
mẹ th́ đă qua đời từ lâu, c̣n bạn bè th́ kẻ mất người c̣n, tạo nên nỗi chán
chường ảo năo tuyệt vọng của nhà thơ trước cảnh biến thiên của muôn sự, cuộc đời
dâu bể tang điền thương hải mong manh vô cùng, nên nhà thơ chỉ c̣n biết bám víu
vào một h́nh ảnh bất biến đó là sóng nước mặt hồ Gương vẫn c̣n nguyên vẹn với
gió xuân phe phẩy, làm dịu mát ḷng người …
Trẻ ra đi, lăo mới về
Tóc bông thưa thớt,
tiếng quê dạt dào
Trẻ con lạ lẫm nhao
nhao
Hỏi cười “Khách ở
phương nào đến đây ?”
Quê nhà xa cách tháng
năm
Bạn bè thưa thớt biệt
tăm phương trời
Mặt Hồ Gương
trước ngơ soi
Gió xuân chắc chẳng
đổi đời sóng xưa
(Hồi Hương Ngẫu Thư – Hạ
Tri Chương)
Nói đến mùa Xuân là
nói đến nhựa sống căng tràn, là nói đến t́nh yêu lai láng dạt dào của những mối
t́nh tuyệt đẹp giữa kẻ nam và người nữ . Bài thơ Đề Đô Thành Nam Trang của Thôi
Hộ là một giai thoại văn học nói lên một mối t́nh xuân muôn thuở nầy .. Chuyện
kể rằng chàng sĩ tử Thôi Hộ đi thi bị hỏng, nhân tiết thanh minh đi du xuân ở
phía nam thành Đô, thấy một trang trại cây cối xanh tươi tốt đẹp, ghé lại gơ cửa
xin nước uống, th́ gặp một tuyệt sắc giai nhân đứng dựa cành đào, e lệ chẳng nói
năng chi, mà chàng trai Thôi Hộ th́ đắm đuối nh́n … Hoa đẹp mà người cũng đẹp
thay! Thôi Hộ từ giă bịn rịn ra về, năm sau cũng nhân tiết thanh minh ghé lại
trang trại cũ đi t́m người xưa, cảnh vẫn không thay đổi, cây đào vẫn c̣n đó đùa
cợt với gió đông, mà người đi đâu vắng, cửa đóng khen cài.. Thôi Hộ bồi hồi
thương nhớ mà cảm xúc viết thành bài thơ đem gài vào cánh cửa ….
Năm ngoái hôm nay cũng
cửa nầy
Hoa đào má phấn đỏ hây
hây
Người đi đâu mất, c̣n
hoa đó
Ghẹo gió đông cười hoa
ngất ngây
(Đề Đô Thành Nam Trang –
Thôi Hộ)
Các nhà thơ đă lấy
h́nh ảnh của sự vật chung quanh, những ǵ b́nh thường trong cuộc sống mà nói lên
những luyến lưu nhung nhớ của những mối t́nh lăng mạn, tạo dựng lên những bức
tranh thơ trữ t́nh sống động, quyến rũ người đọc . Một Thôi Hộ đă dùng h́nh ảnh
tươi mát của cây đào cười trước gió đông để vẻ nên h́nh ảnh tha thướt kiều diễm
của người con gái, c̣n Vương Duy th́ dùng h́nh ảnh của cây đậu đỏ để thầm nói
lên nỗi nhớ tương tư da diết . Có một truyền thuyết ở miền Hồ Nam có một thiếu
phụ có chồng đi lính thú miền xa, chẳng may chồng chết ở biên cương, người thiếu
phụ thường đứng dưới cây nầy nhớ chồng khóc thương đến chết rồi hóa thành hạt
đậu đỏ, mà người ta thường gọi là hạt “tương tư” để nói lên nỗi nhớ nhung trong
t́nh yêu trai gái hoặc bạn bè :
Nước nam đậu đỏ đâm
chồi
Xuân về thắm nở xinh
tươi trĩu cành
Chàng ơi hái nhé cho
nhanh
Đậu xinh gợi nhớ t́nh
xanh diệu huyền …
(Tương Tư – Vương Duy)
Những cuộc t́nh
thật lăng mạn như duyên với nợ, gần nhau đó để mà xa nhau, để mà nhớ thương khi
mùa xuân không hẹn ḥ và chẳng ngần ngại trở về tự nhiên .. một trái tim thơ đă
ngân vang ngh́n cung bậc ḥa nhập vào trái tim yêu … khi gió xuân khe khẽ xuyên
màn …
Cỏ Yên biếc ngọc tơ
ngàn
Cành xanh trĩu nặng dâu
Tần xa xa
Chàng thân viễn khách
nhớ nhà
Thiếp buồn rười rượi
ruột rà quặn đau
Gió xuân lạ lẫm từ đâu
Xuyên màn khe khẽ động
sầu tâm ai …
(Xuân Tứ – Lư Bạch)
Mùa xuân đến, chồng
đi công tác xa, vợ ở nhà nhớ chồng mà đành đoạn tâm cang, đâu c̣n thưởng thức
được cảnh hoa nở chim hót :
Oanh vàng xua đuổi bay
xa
Đừng cho chim cất tiếng
ca trên cành
Chim kêu làm thiếp giật
ḿnh
Liêu tây khó đến đoạn
đành tâm can
(Xuân Oán – Kim Xương Tự)
Có những nhà thơ đă
bộc bạch t́nh cảm của ḿnh một cách chất phác chân thành. Họ đă bày tỏ diễn đạt
ư nghĩ và cảm xúc của họ đối với bạn bè một cách tự nhiên, không che đậy. Họ đă
thích thú t́m thấy trong chân t́nh bạn hữu những tâm hồn đồng điệu ḥa nhịp theo
nỗi buồn trầm lắng và niềm vui cất cánh bay cao .. Hăy xem Trần Tử Ngang vào
một ngày xuân tiễn bạn tri âm lên đường, chất ngất nỗi niềm nhớ nhung, tâm t́nh
gắn bó thiết tha … lời thơ trầm bổng lưu luyến để mà hỏi “ Gặp nhau, biết bao
giờ ?”
Khói xanh vờn đuốc bạc
Tiệc ngon thơm rượu
nồng
Tri ân t́nh cầm sắt
Đường đi ngăn núi sông
Khuất ṿm cây trăng
sáng
Sông Ngân tỏa ánh mờ
Lạc Dương chừ muôn dặm
Gặp nhau, biết bao giờ?
(Xuân Dạ Biệt Hữu Nhân –
Trần Tử Ngang)
Hoặc bài thơ Ngày Xuân Nhớ
Lư Bạch của Đỗ Phủ, cho thấy t́nh bè bạn, tri kỷ là cái ǵ cao quí trên cuộc đời
nầy …
Thơ ai hơn Lư Bạch
Ư tứ hay xuất thần
Mát tươi như khai phủ
Tài cao tựa tham quân
Vị Bắc cây xuân ngát
Giang Đông mây chiều
gần
Bao giờ chia chung rượu
Nâng chén luận thi văn
(Xuân Nhật Ức Lư Bạch – Đỗ
Phủ)
Hoặc như Trịnh Cốc
tiễn bạn ở bến sông Dương , bên những hàng liễu tha thướt màu biếc ngọc, xuân
thắm… Họ đă cùng nhau đàm đạo, uống rượu, ngâm thơ, cùng chia sẻ cay đắng ngọt
bùi trên đường đời, để rồi cũng đến ngày phải chia tay, mỗi người đôi ngả… Những
cánh hoa dương ủ rũ héo ṃn như thông cảm cùng đôi bạn . Mùa xuân là mùa của vui
tươi hạnh phúc, của đoàn viên sum họp mà phải chia ly th́ đâu có cảnh nào buồn
hơn ….
Liễu xanh rờn bến sông
Dương
Chạnh ḷng ly khách hoa
dương héo ṃn
Ly đ́nh sáo gió véo von
Tiêu Tương bạn đến,
hướng Tần tôi đi
(Hoài Thủy Biệt Hữu –
Trịnh Cốc)
Những buổi chiều
cuối năm khi nhà thơ nh́n nắng tàn rơi rụng ngoài sân, một nhánh mai vàng vừa hé
nụ, báo hiệu cho mùa xuân mới sắp đến, làm nhà thơ dâng tràn cảm xúc ngậm ngùi
.. khi nhớ quê, nhớ bạn, tự xót thương cho cảnh ngộ của ḿnh .. Tác giả mượn thể
thơ thuật hoài để bày tỏ nỗi ḷng u uẩn, bang khuâng, đồng thời hé mở cho thấy
cái quan niệm về nhân sinh và cuộc đời, như bài thơ “Nỗi Ḷng Đêm Cuối Năm” của
Lưu Vũ Tích
Suốt năm không vừa ư
Năm mới biết sao đây ?
Bạn bè xưa thương nhớ
Bao kẻ c̣n hôm nay
Lấy nhàn mà vui sống
Tuổi thọ bù gian nguy
Xuân đâu cần mới cũ
Chốn cùng cũng ghé ngay
(Tuế Dạ Vịnh Hoài- Lưu Vũ
Tích)
Có những bài thơ
mang tính hiện thực, có tinh thần xă hội tiến bộ, khi nhà thơ đă dùng thi ca để
phản ảnh bộ mặt thực đen tối của xă hội, cái suy đồi của chế độ phong kiến, cái
bất công của giai cấp thống trị vua chúa, cái bất nhân xấu xa của những ông quan
có thế lực và tiền tài .. Những bài thơ mang tính chất xă hội có giá trị và đó
chính là cái chức năng thiêng liêng và cao quí của kẽ sĩ chân chính .. Người phụ
nữ trong chế độ quan liêu phong kiến bị ràng buộc bởi những quan điểm hủ lậu
nghiệt ngă như “trọng nam khinh nữ” họ chỉ là những bóng mờ bên lề cuộc đời.
Cung Tây đêm vắng ngát
hoa xuân
Muốn cuốn rèm châu oán
hận dâng
Ôm ấp cung đàn nghiêng
dáng nguyệt
Chiêu Dương mờ mịt bóng
cây ngàn
(Tây Cung Xuân Oán- Vương
Xương Linh)
Những tháng ngày
tuổi xuân phơi phới của cung tần mỹ nữ đă bị đày đọa, chôn vùi trong thâm cung,
cấm thành, có khi suốt cả cuộc đời chưa thấy mặt quân vương …
Lầu cao bóng liễu
nghiêng che
Oanh ca hót sớm thảm
thê cung tần
Hàng năm hoa rụng ai
màng
Suối xuân đưa đẩy xuôi
ḍng ngự câu
(Cung Oán – Tư Mă Lễ)
Người phụ nữ trong
cung cấm không được quyền có hạnh phúc, sau một thời gian sung sướng, họ không
c̣n được ơn mưa móc, tự chấp nhận số phận hẩm hiu, âm thầm quạnh quẽ chôn vùi
cuộc sống cô đơn trong chốn thâm cung lạnh vắng ủ ê sầu …
Ơn vua thất sủng biết
về đâu ?
Thoảng chút hương xưa
áo múa nhàu
Tự giận thân ḿnh thua
cánh én
Xuân về quanh quẩn bức
rèm châu
(Trường Tín Cung – Mạnh
Tŕ)
Họ mỏi ṃn lê dài
cuộc sống vô vọng, để thời gian vô t́nh tàn phai nhan sắc, và đôi khi ngẩn ngơ,
chua xót và thương tiếc vu vơ cho thời gian hương phấn vàng son đă trôi qua :
Tuyệt trần tuyết phải
nhường hoa
Hương thơm thoang
thoảng vào tà áo vua
Gió xuân đâu biết bông
đùa
Bay về thềm ngọc gió
lùa bâng khuâng
(Tả Dịch Lê Hoa – Khâu Vi)
Họ phải âm thầm
chịu đựng, nhẫn nhục, chấp nhận cuộc sống lạnh nhạt, lẻ loi, như một bổn phận ,
hay đúng hơn một sự tự chấp nhận cái thân phận không may mắn, như một duyên phận,
định mệnh của cuộc đời hồng nhan hẩm hiu, mong manh ..
Đẹp xinh càng duyên bạc
Muốn về biếng gương soi
Ơn vua chẳng v́ sắc
Trang điểm chi vẽ vời
Gió xuân mừng chim hót
Bóng hoa rợp ánh trời
Bao năm cô gái Việt
Phù dung hái nhớ người
(Xuân Cung Oán- Đỗ Tuân
Hạc)
Hoặc có những nỗi oán
pḥng khuê … khi người phụ nữ tự ăn năn hối hận tại sao không biết giữ chồng ở
nhà lo việc canh nông đồng áng mà chỉ mong chồng lên đường kiếm tước hầu quyền
cao chức trọng …
Thiếu nữ pḥng khuê
chẳng biết sầu
Ngày xuân tô điểm bước
lên lầu
Bên đường chợt thấy
hàng dương liễu
Hận xúi phu quân kiếm
tước hầu
(Khuê Oán – Vường Xương
linh)
Phần đông những kẻ
sĩ thời phong kiến chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng triết lư Khổng Mạnh hoặc
Lăo Tử, mỗi người có một cảnh ngộ khác nhau, để tùy theo đó mà có tư tưởng thái
độ và hành động khác nhau . Từ cuối đời Hán đạo Phật du nhập dưới các phái Thiền
Tông đă có ảnh hưởng sâu xa đến lối suy nghĩ, hành động, và cảm hứng của các thi
nhân. Thơ đă phản ảnh được cái chí hướng, nhận thức, t́nh cảm và nếp sống của
con người …Có những nhà thơ xem thường cuộc sống bon chen danh lợi, chán ngán
thời thế mà chỉ thích ngao du sơn thủy, những ḍng thơ của họ mang tính lăng mạn
tiêu cực. Họ mang tư tưởng “lạc thiên tri mệnh”, muốn lui về ở ẩn sống yên vui
qua ngày tháng :
Sống nhàn suy nghĩ
triền miên
Đến, đi là sự ngẫu
nhiên trên đời
Gió chiều đẩy chiếc
thuyền trôi
Đường hoa thơm ngát mời
người vào khe
Núi Tây đêm phủ mây che
Sao Nam lấp lánh bốn bề
núi cao
Mịt mù sương khói đầm
ao
Phía sau rừng thấp
trăng sao tỏ mờ
Chuyện đời bỏ mặc ngu
ngơ
Ôm cần câu cá nhởn nhơ
vui đời
(Xuân Phiếm Nhược Da Khê –
Cơ Vô Tiềm)
Chịu ảnh hưởng của
đạo học, lấy tư tưởng vô vi xuất thế làm kim chỉ nam cho thực tại nhân sinh, xem
công danh sự nghiệp, phù vinh phú quư như mây trôi gió thổi:
Xóa buồn đi, cứ vui
chơi
Bận tâm danh ảo, th́
đời mất vui !
(Khúc Giang – Đỗ Phủ)
Chán chê nếp sống
xa hoa cung đ́nh, từ chối cái hào nhoáng áo mũ xênh xang, có khuynh hướng thoát
ly tiêu cực, thích vui thú điền viên, thơ văn của họ mang vẻ đẹp của bức tranh
sơn thủy mộc mạc hữu t́nh, chan chứa đạo vị, an nhiên, dịu dàng và trong sáng…
Cơi trần xa lánh mười
năm
Non xanh gối mộng đêm
nằm trăng mơ
Lầu son... giấc ngủ vật
vờ
Kiếp phù vinh chẳng có
cơ thanh bần
Việc triều cương lắm
gian truân
Sống say sưa chỉ thêm
phần chán chê
Thôi th́ quẩy sách về
quê
Hoa cười chim hót bốn
bề hương Xuân
(Quy Ẩn – Trần Phốc)
Họ an thân ẩn dật
sống vui thú với rừng xanh ngan ngát cỏ hoa, suối chảy róc rách, chim kêu vượn
hót, những khung cảnh thiên nhiên nhàn hạ, b́nh dị và tĩnh mịch.. Họ sống cuộc
đời thanh cao đạm bạc … nên những lời thơ thường siêu thoát nhẹ nhàng, thoát tục,
mang mang đạo vị …
Sang hèn tuy khác bậc
Ra đường phải tranh
nhau
Riêng ta không ràng
buộc
Sống chẳng phải lo âu
Mưa phùn đêm rơi nhẹ
Cỏ mọc nào biết đâu
Núi xanh trời rạng sáng
Chim ríu rít nhà sau
Thiền sư đôi khi gặp
Tiều phu dạo cùng nhau
Thua kém ḿnh yên phận
Phú quí chẳng bền lâu
(U Cư – Vi Ứng Vật)
"Cuộc đời như giấc
mộng – Làm chi thêm cực mà ..” th́ cuộc đời cũng chỉ là “hoàng lương mộng” tỉnh
giấc mà nồi kê vẫn chưa chín … nhà thơ Lư Bạch đă sống rất phóng túng ngạo nghễ,
cách ly xă hội phiền toái, xa lánh trật tự quan liêu phong kiến của triều đ́nh,
xem thường cái quan điểm luân lư câu nệ, lễ giáo g̣ bó của nhà nho, nên những
vần thơ của ông cũng phản ảnh sự bất chấp phóng túng hào hoa của ông rất tự
nhiên :
Cuộc đời như giấc mộng
Làm chi thêm cực mà
Suốt ngày say bí tỉ
Ngủ lăn trước hiên nhà
Thức dậy nh́n sân trước
Chim hót vui đời hoa
Ngày nào hôm nay nhỉ
Gió xuân vờn oanh ca
Nh́n cảnh mà ngao ngán
Thấy rượu đành rót ra
Nghêu ngao chờ trăng
sáng
Hát xong quên sầu ta
(Xuân Nhật Túy Khởi Ngôn
Chí- Lư Bạch)
Có những nhà thơ đă
muốn tự tách ḿnh ra ngoài cái phiền toái của xă hội phức tạp, cái hưng phế
thăng trầm của lịch sử triều đại, không đoái hoài đến cái ṿng luẩn quẩn của
phù hoa danh lợi, chỉ thích một cuộc sống nhàn dật vô vi, an nhiên tự tại với
núi, sông, mây, gió .. Thái Thượng Ẩn Giả là ai ? những người cùng thời với ông
chẳng ai hay biết … Ai hỏi thân thế nhà thơ ? ở đâu ? đi dâu ? Ông chỉ làm
bài thơ “Đáp Nhân” (Trả lời người hỏi) … ở đâu, đến đâu cũng chỉ là sự t́nh cờ
ngẫu nhiên … nói lên cái phong độ thư thái của người thơ … Dù cho xuân, hạ, thu,
đông bốn mùa thay lá theo định luật tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ .. nhưng
tâm hồn và quan niệm sống của người thơ vẫn không thay đổi, vượt thoát ra cái
ṿng cương tỏa của thời gian sách lịch, của xă hội tầm thường
T́nh cờ bước đến gốc
thông
Gối cao trên đá giấc
nồng chiêm bao
Khó t́m sách lịch núi
cao
Rét run đă dứt năm nào
chả hay ?
(Đáp Nhân – Thái Thượng Ẩn
Giả)
Những bài thơ đă
diễn tả tâm trạng bi quan yếm thế … những người đă ngán ngẫm cảnh phù phiếm xa
hoa, đă kinh sợ những chông gai cạm bẫy, những phản trắc của cuộc đời cát bụi vô
thường … để bây giờ muốn trút bỏ tất cả những tục lụy trần ai của cuộc đời mà
t́m đến thiền môn …. Một nơi chốn không c̣n hận thù tranh chấp, không c̣n đố kỵ
nhỏ mọn ….
Trâm anh trút bỏ tặng
quanh làng
Ngán ngẩm xuân tàn tóc
cắt ngang
Kinh sợ đời người như
nến gió
Giờ đây thân xác tựa
sen vàng
Mở xem lá bối lầm
chương gấm
Lần học trang kinh ngỡ
bụi đàng
Sắc đẹp là không, thôi
giă biệt
Sông Tương chắc vắng kẻ
quyền sang
(Kỹ Nhân Xuất Gia – Dương
Tuân Bá)
Một bài thơ t́nh
mang gốc huyền thoại thần tiên mà người đời vẫn c̣n ưa thích, đă trở thành điệu
hát ca trù rất phổ biến đó là Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai gồm 5 bài thơ chung một
chủ đề ..Lưu Thần Nguyễn Triệu vào núi Thiên Thai hái thuốc và gặp hai tiên nữ
rất xinh đẹp, mời Lưu Nguyễn về nhà tiếp đăi ân cần. Ở trong núi nửa năm, Lưu
Nguyễn xin trở về nhà.. về đến trần gian đă trải qua bảy đời người . Trong 5
bài thơ đó có bài thơ tả “ Tiên Nữ Trong Động Nhớ Lưu Nguyễn” vào một ngày xuân
thanh vắng :
Gảy khúc nghê thường
chẳng có ai
Mộng trần đâu biết mộng
tiên dài
Trời riêng góc động
xuân yên ắng
Nẻo khuất dương trần
nguyệt úa phai
Khe thắm cỏ tiên vờn
cát ngọc
Suối thơm đào ngát nước
xanh trôi
Mỏng manh sương sớm đèn
trong gió
Muốn gặp chàng Lưu biết
hỏi ai ?
(Tiên Tử Động Trung Hữu
Hoài Lưu Nguyễn – Tào Đường)
Có những bài thơ
hoài cổ vịnh sử, phản ảnh những giai đoạn thăng trầm của lịch sử … như bài Xích
Bích Hoài Cổ của Đỗ Mục. Người thơ đă dùng những sự kiện hư cấu để làm câu
chuyện thêm hứng thú bằng cách đưa ra một di tích lịch sử phát hiện được trên
băi chiến trường xa xưa, đó là một thanh kích sắt đă găy và bị chôn vùi trong
đất cát lâu ngày, để nhắc lại truyện xưa. Chu Du là danh tướng Đông Ngô thời Tam
Quốc, là bạn của Tôn Sách và có công giúp Tôn Sách xây dựng nước Đông Ngô. Khi
Tào Tháo đem quân xuống đánh, nhờ Khổng Minh cầu ngọn gió đông về để giúp Chu Du
thực hiện được kế hỏa công đốt phá doanh trại của Tào Tháo, chiến thắng trận
Xích Bích vẻ vang .. Hai Kiều đây có ư nói là hai người đẹp nổi tiếng của Đông
Ngô, Đại Kiều vợ của Tôn Sách và Tiểu Kiều vợ của Chu Du … Trong bài thơ vịnh sử
nầy Đỗ Mục đă đặt giả thuyết nếu không có ngọn gió đông giúp Chu Du th́ Đông Ngô
bại trận và hai nàng Kiều đă bị bắt về đài Đông Tước …
Kích vùi trong cát, sắt
chưa tan
Mài rửa, triều xưa thấy
rơ ràng
Giá thử Chu Du không
được gió
Hai Kiều bị giữ chốn
đài xuân
(Xích Bích Hoài Cổ – Đỗ
Mục)
Mùa Xuân đến mọi
nơi, nhưng không phải nơi nào cũng là chốn để vui xuân, thưởng xuân .. khi mà
chiến tranh khói lửa triền miên đă xảy ra, gây bao cảnh biệt ly, tang tóc … Ở
những chốn biên cương, đèo heo hút gió … xơ xác ảm đạm th́ mùa xuân chỉ c̣n
hoang vắng, lạnh lẽo, thê lương … “mộ biếc ba xuân đầy tuyết trắng “ như những
lời than oán rền rĩ của người lính thú biên cương, phải đằng đẵng xa gia đ́nh
bao năm tháng …như trong bài thơ tả cảnh biên tái như sau :
Bao năm ải Ngọc với
sông Vàng
Mỗi sáng roi vờn với
kiếm cung
Mộ biếc ba xuân đầy
tuyết trắng
Hắc sơn muôn dặm uốn
sông Hoàng
(Chinh Nhân Oán – Liễu
Trung Dung)
Xuân đến và xuân đi
như gió thoảng mây trôi … Xuân đến cho muôn hoa đua nở, mạch sống tuôn tràn …
Xuân đi cho hoa lá héo tàn , ḷng người cô quạnh, cảnh trời hiu hắt ..Tuổi xuân
cũng chỉ ngắn ngủi tấc gang, chẳng sống được dài lâu .. Xuân đă đi rồi đi đem
lại nỗi sầu tàn phai, thương tiếc, nhớ nhung như hai nhà thơ Hàn Dũ và Vương Duy
đă bộc bạch :
Biết xuân chẳng ở dài
lâu
Cỏ cây khoe sắc muôn
màu khắp nơi
Quả du hoa liễu kém
tươi
Chỉ c̣n bông tuyết
khắp trời bay giăng
(Văn Xuân- Hàn Dũ)
Già theo ngày tháng
trôi nhanh
Năm quanh quẩn hết,
xuân xanh đến hoài
Vui cùng cốc rượu mà
say
Cần chi thương tiếc hoa
bay ngoài trời
(Tống Xuân Từ – Vương Duy)
Mùa xuân trong
Đường Thi là bức tranh thủy mạc màu sắc hài ḥa, có những nhà thơ tả cảnh thiên
nhiên núi sông cây cỏ hoa bướm bằng những nét chấm phá đơn sơ, mộc mạc, nhưng đó
là những gam màu pha trộn của một nghệ thuật hội họa tinh vi và sâu sắc .. Bằng
những tầm mắt xa rộng, họ đă cho chúng ta thấy cái huyền diệu của thiên nhiên vũ
trụ bao la, của hương vị Thiền và Đạo man mác , của sự thư thái và an nhàn để mà
suy tư về sự vô thường và hữu hạn của cuộc đời . Những h́nh ảnh linh động và âm
thanh dạt dào trong ngôn từ tinh vi cô động đă biểu hiệu cảm xúc chân thành, và
gợi lên những liên tưởng thâm thúy và tư duy mẫn cảm .. Hăy lắng nghe tiếng chim
kêu lanh lảnh bên khe suối mùa xuân của thi sĩ Vương Duy :
Người nhàn hoa quế rụng
Đêm xuân núi đ́u hiu
Trăng lên chim thảng
thốt
Khe xuân vọng tiếng kêu
(Điểu Minh Giản – Vương
Duy)
Bài thơ tả t́nh và
cảnh một cách rất nghệ thuật, mông lung giữa làn sương khói u hoài và ánh trăng
soi huyền diệu trên bến nước dập dềnh mênh mông … làm người đọc phải bần thần
suy tư : đó là bài thơ “Đêm Hoa Trăng Trên Sông Xuân” của Trương Nhược Hư . Nhà
thơ đă xử dụng ngôn ngữ thẩm mỹ một cách tài t́nh, những h́nh ảnh âm thanh sống
động có sức gợi cảm ngân vang, cùng với sự sáng tạo, tưởng tượng liên kết lạ
lùng, gây nên những tác động mạnh mẽ và sự tiếp thụ phong phú nơi người đọc .
Bài thơ đă dẫn dắt người đọc đưa những bước chân hụt hẩng vào một thế giới cảm
xúc mênh mang của cụ thể và trừu tượng, của vô h́nh và hữu h́nh, của thực chất
và mộng ảo …
Biển vắng sông êm gợn
nước bằng
Lung linh trăng tỏ
sóùng triều dâng
Mênh mông theo sóng
trôi ngàn dặm
Xuân thắm sông nào
chẳng có trăng ?
Sông quanh đất ngát
thoảng hương đầy
Trăng sáng rừng hoa ngỡ
tuyết bay
Lất phất sương rơi nào
có thấy
Sông dài cắt trắng
chẳng ai hay
Tinh khiết trời sông
một sắc màu
Trăng soi vằng vặc suốt
đêm thâu
Hỏi ai đă thấy vầng
trăng cũ
Có nhớ năm nao rực bến
đầu
Kiếp người dâu bể măi
sinh sôi
Trăng chiếu bên sông
cũng thế thôi
Chẳng biết v́ sao trăng
rạng rỡ
Sông dài giục giă nước
buông trôi
Lơ lửng mây trôi trắng
xóa màu
Hàng phong bến vắng
động tâm sầu
Đêm nay thuyền nhỏ ai
rong ruổi
Trăng sáng lầu cao gợi
nhớ nhau
Quạnh quẽ vầng trăng dạ
thốn đau
Sáng soi gương điểm kẻ
ly sầu
Luyến lưu trăng ngủ
trên thềm ngọc
Quanh quẩn chày đêm dẫu
quét lau
Càng ngóng trông nhau
cứ biệt tăm
Xin trăng xoải bóng đến
thân chàng
Khó mang ánh nguyệt
ràng chân nhạn
Rồng cá đua bơi gợn
sóng vàng
Hoa rơi đầm vắng mộng
đêm qua
Tiếc nửa đời xuân cố
quận xa
Sóng nước trôi xuân,
xuân sắp tận
Đầm tây trăng xế lạnh
đêm tà
Trăng ch́m sóng biển
dặt dầy sương
Núi Kiệt sông Tương
bóng mịt mùng
Mấy kẻ cưỡi trăng nào
có biết
Bến cây trăng lạnh nghĩ
mà thương …
(Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ
– Trương Nhược Hư)
KẾT LUẬN : Thế giới
Đường Thi là một bức tranh thủy mặc hài ḥa với những con chữ lẫn hồn thơ, là
một sự phối hợp tuyệt tác giữa các màu sắc tuyệt mỹ và âm thanh trầm bổng làm
quyến rũ người thưởng ngoạn vô cùng … Trên thi văn đàn Trung Quốc, mỗi một
thi-sĩ có một cá tính sắc thái riêng biệt, một phong cách và khuynh hướng khác
nhau.. Trong phạm vi thu hẹp đề tài “ T́nh Xuân Trong Đường Thi” chúng tôi chỉ
xin đan cử một số bài thơ xuân tiêu biểu mà thôi, chứ thật ra kho tàng của Đường
Thi chất ngất vô vàn, như khu rừng trùng trùng điệp điệp đầy hoa thơm cỏ lạ…
Những người yêu thơ dầu ở cách xa nhau ngàn dặm, không nói, mà vẫn có những điểm
tương đầu ư hợp khi cảm xúc được một bài thơ hay, một câu thơ đẹp, một ư thơ
thâm thúy nào đó …
Tác giả nếu có ǵ
thiếu sót hoặc bất cẩn xin quí cụ túc nho trưởng thượng miễn thứ, và mong bạn
đọc yêu thơ Đường miễn chấp . Tác giả xin chân thành cảm tạ .
V́ chúng tôi chưa
có nhu liệu cần thiết để đưa nguyên tác bài thơ chữ Hán lên liên mạng, xin quí
bạn đọc thông cảm.