Thu Vịnh Cổ Thi

Đường thi Hải Đà và bản dịch của các thi hữu

    





Thu Vịnh Cổ Thi

Phong thu diệp lạc thán phân ly
Vãng sự quan hà sở kiến tri 
Minh nguyệt mãn sàng tư Lý tửu (1)
Chung thanh đáo khách cảm Trương thi (2)
Tì bà thiết thiết sầu cô lữ (3)
Hoàng hạc du du muộn mặc thì (4)
Nhân thế phù trầm thu mẫn trắc
Cổ thi ngâm vịnh giải tâm bi

Hải Đà

(1) Tĩnh Dạ Tứ-Lý Bạch
     Tương Tiến Tửu 
(2) Phong Kiều Dạ Bạc-Trương Kế
(3) Tỳ Bà Hành-Bạch Cư Dị
(4) Hoàng Hạc Lâu-Thôi Hiệu






dịch nghĩa:

Thu ngâm thơ cổ

Gió thu thổi lá rụng than cảnh chia lìa
Muôn sự núi sông đã qua thấy rõ ràng
Trăng chiếu đầy giường nhớ rượu Lý Bạch
Khách nghe chuông vọng nghĩ đến thơ Trương Kế
Khúc Tì Bà réo rắt cảm người xa xứ cô đơn
Hạc vàng bay xa là lúc buồn bã yên lặng
Kiếp đời bôn ba chìm nổi thu cũng động lòng
Ngâm câu thơ cổ khuây khỏa tâm sầu





Thu Ngâm Thơ Cổ
(bản dịch Hải Đà)

1-
Chia lìa lá rụng gió sầu vương
Chuyện nước non xưa thấy tỏ tường
Trăng chiếu đầy giường mơ rượu Lý
Chuông rền thuyền khách nhớ thơ Trương
Tì Bà réo rắt sầu ly xứ
Hoàng hạc bay rồi lặng lẽ thương
Thu cảm đau đời chìm nổi mãi
Ngâm câu thơ cổ nhẹ tâm thường

2- 
Chia lìa lá, gió thu bay
Nước non muôn sự xót thay cho đời
Giường trăng rượu Lý say người
Nhớ thơ Trương Kế bồi hồi tiếng chuông
Tỳ Bà gẩy khúc ly hương
Hạc vàng bay khuất lệ vương vấn hoài
Thu thương đời mãi nổi trôi
Ngâm câu thơ cổ khuây nguôi dạ sầu

Hải Đà phỏng dịch





Thu Ngâm Thơ Cổ
(bản dịch Phạm Vũ Thịnh)

Gió thu rụng lá chia ly
Nước non chuyện cũ mùa đi nát lòng
Giường trăng chén Lý dầm sương
Chuông chùa đồng vọng giấc Trương một mình
Tỳ bà nhỏ giọt lữ tình
Hạc vàng biền biệt lênh đênh suốt đời
Thu ơi, thân thế nổi trôi
Còn chăng bàng bạc đôi lời thơ xưa

Phạm Vũ Thịnh cảm dịch





Đêm Thu Ngâm Thơ Cổ
(bản dịch Đỗ Quí Bái)

Heo May cuốn lá khóc xa cành
Việc cũ non sông tưởng rõ rành
Trăng rọi giường khuya thèm Lý tửu
Chuông thăm thuyền khách nhớ Trương sanh
Tỳ Bà cao vút hồn đơn lẻ
Hoàng hạc xa đưa vía lạnh tanh
Chìm nổi thương thân thu xúc cảm
Ngâm câu thơ cổ lắng sầu thành
 
Lạc Thủy-Đỗ Quí Bái





Thơ Cổ Vịnh Thu
(bản dịch Tam Thanh)

Gió thu dứt lá lìa cành,
Chuyện xưa, nước cũ, rành rành đó thôi...
Nằm mơ rượu Lý mềm môi,
Trăng khuya soi sáng gối đôi giường nằm.
Tiếng chuông buông động khách thăm,
Thơ Trương trỗi dậy trăm năm không mờ...
Đàn Tỳ soắn xiết tình ngơ,
Hạc vàng bay miết ai chờ nơi đâu !
Phận mình thu cảm đậm sâu,
Bèn ngâm thơ cổ cho sầu vơi vơi...

Tam Thanh

 



Reciting The Olden Verses Of Autumn

The autumn wind separates the leaves from the trees creating a dreary scene
The natural stages of universe which have come and gone can be clearly seen
Reminiscing the wine of Li Bai as the moon light covers the ground (1)
Thinking of the verses of Zhang Ji as the people hear the bell sound (2)
The music of the Chinese four-chord lute leaves the foreigner in dismay (3)
There is a sense of quiet sorrow as the yellow cranes fly away (4)
Autumn is touched with sympathy as the people depart
However reciting the olden verses relieve the sad heart

English version by Hải Đà


(1) Thoughts on a Still Night- Li Bai's poem
http://www.chinese-poems.com/lb4.html

(2) A night-mooring near Maple Bridge- Zhang Ji's poem
http://www.chinapage.com/poet-e/zhangji2e.html
(3) The music of the Chinese four-chord lute -Bai Juyi's poem
http://www.afpc.asso.fr/wengu/wg/wengu.php?l=Tangshi&no=72
(4) Yellow Crane Tower- Cui Hao's poem
http://www.chinese-poems.com/crane.html